1. Điểm giống nhau
Đều là sự chuyển dịch tài sản của người đã chết cho những người còn sống. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã được hình thành thai trước khi người để lại di sản chết. Tất cả những người hưởng thừa kế đều có quyền từ chối nhận thừa kế theo Điều 620 Bộ luật dân sự năm 2015.
Trong trường hợp những không có người nhận thừa kế theo di chúc và theo pháp luật đều hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sai khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước.
Về thời hiện mở thừa kế quy định tại Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2015 “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó”. Trong trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu (Điều 236 BLDS năm 2015), nếu không có người chiếm hữu thì di sản thuộc về Nhà nước.
2. Điểm khác nhau
Thứ nhất về khái niệm
Thừa kế theo di chúc là thừa kế theo ý chí nguyện vọng của người để lại di sản trước khi chết còn thừa kế theo pháp luật trong trường hợp người chết không để lại di chúc, di chúc không hợp pháp, những người thừa kế theo di chúc không còn hoặc từ chối nhận di sản tại thời điểm mởi thừa kế chia di sản theo hàng thừa kế, điều kiện, trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
Thứ hai, về người thừa kế
Thừa kế theo di chúc: Là cá nhân, cơ quan, tổ chức được người lập di chúc đề cập là người nhận di sản trong di chúc và đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.
Thừa kế theo pháp luật: Chỉ có thể là cá nhân có mối quan hệ huyết thống, hôn nhân, nuôi dưỡng với người để lại di sản. Những người thừa kế theo pháp luật được chia thành 03 hàng thừa kế, những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Thứ ba, về hình thức
Thừa kế theo di chúc: Được lập thành văn bản hoặc di chúc miệng (Điều 627 BLDS năm 2015).
Thừa kế theo pháp luật: Chỉ bằng văn bản có công chứng về việc phân chia di sản của các đồng thừa kế. Nếu có tranh chaaso về thừa kế thì theo quyết định của tòa án về phân chia di sản.
Thứ tư, trưởng hợp được thừa kế
Thừa kế theo di chúc: Theo ý chí, nguyện vọng của cá nhân khi lập di chúc, người thừa kế là cá nhân phải còn sống vào thời điểm thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Thừa kế theo pháp luật: Được thực hiện trong trường hợp không có di chúc, di chúc không hợp pháp, những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, cơ quan tổ chức được hưởng thừa kế theo di chức nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Thứ năm, thừa kế thế vị
Thừa kế theo di chúc: Không có thừa kế thế vị
Thừa kế theo pháp luật: Thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 652 BLDS
Thứ sáu, phân chia di sản
Thừa kế theo di chúc: Theo quy định tại Điều 659 BLDS
Thừa kế theo pháp luật: Theo quy định tại Điều 660 BLDS
Thứ bảy, thứ tự áp dụng
Thừa kế theo di chúc được ưu tiên áp dụng trước. Còn thừa kế theo pháp luật được áp dụng khi rơi vào các trường hợp quy định tại Điều 650 BLDS năm 2015
Tư vấn viên : Khuất Thị Quỳnh